Bàn về chế định đại diện trong Bộ luật Dân sự năm 2015

Đại diện là một chế định quan trọng trong đời sống pháp lý xã hội. Bất kỳ hệ thống pháp luật nào cũng đều xem đây là một chế định quan trọng, chế định trung tâm của luật dân sự hiện đại[1].

Bàn về chế định đại diện trong Bộ luật Dân sự năm 2015

Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Mặc dù quy định này không chỉ ra nguồn gốc hay căn cứ làm phát sinh ra quan hệ đại diện, nhưng chỉ rõ phạm vi thẩm quyền và mục tiêu của quan hệ đại diện là hướng tới việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, và những yêu cầu cần đáp ứng khi thực hiện hành động đại diện.

Pháp luật dân sự của các nước trên thế giới có nhiều cách hiểu và định nghĩa về đại diện khác nhau. Ví dụ, Điều 99 BLDS Nhật Bản năm 2005 quy định về đại diện như sau: Sự biểu lộ ý chí bởi người đại diện thể hiện rằng sự biểu lộ ý chí đó được lập ra nhân danh người được đại diện trong phạm vi thẩm quyền của người đại diện ràng buộc người được đại diện; các quy định này được áp dụng với những sửa đổi thích hợp đối với bất kỳ sự biểu lộ ý chí nào bởi người thứ ba tới người đại diện. Quy định này cho thấy: (1) việc trao quyền đại diện không nhất thiết là một hợp đồng, có nghĩa là có thể bởi các nguồn gốc hay căn cứ khác; (2) người đại diện không nhất thiết phải hành động trong lĩnh vực xác lập hay thực hiện giao dịch dân sự; (3) yêu cầu người đại diện phải thể hiện sự nhân danh người được đại diện.

Pháp luật Anh giải thích thuật ngữ đại diện (agency) được sử dụng để chỉ mối quan hệ tồn tại khi một người có thẩm quyền hoặc năng lực để tạo lập mối quan hệ pháp lý giữa một người giữ vai trò là người được đại diện và người thứ ba. Và nó được giải thích thêm là quan hệ đại diện xuất hiện bất kỳ khi nào một người, được gọi là người đại diện (agent), có thẩm quyền hành động nhân danh người khác, được gọi là người được đại diện (principal), và bằng lòng hành động như vậy[2].

Tương tự, Luận thuyết về đại diện (lần thứ hai)[3] của Hoa Kỳ định nghĩa: Đại diện là quan hệ ủy thác phát sinh từ việc biểu lộ sự ưng thuận bởi một người với một người khác mà người sau này hành động nhân danh và phụ thuộc vào sự kiểm soát của người trước, và sự ưng thuận bởi người sau hành động như vậy”.

Theo pháp luật Hoa Kỳ, chế định đại diện có đặc điểm sau: thứ nhất, là một quan hệ ưng thuận mà trong đó người đại diện đồng ý hay ít nhất bằng lòng hành động dưới sự chỉ dẫn hay kiểm soát của người được đại diện; thứ hai, là một quan hệ ủy thác mà theo đó người đại diện đồng ý hành động cho và nhân danh người được đại diện[4].

Việc phân tích nêu trên cho thấy, so với chế định đại diện trong BLDS của một số nước, chế định đại diện trong BLDS năm 2015 có phạm vi hẹp hơn (BLDS năm 2015 chỉ xác định mục đích đại diện trong xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự). Tuy nhiên, thẩm quyền của người đại diện trong trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện lại quá rộng. Khoản 2 Điều 141 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Trong đời sống xã hội, mỗi người đều có quyền tự do ý chí. Họ có thể trực tiếp biểu lộ ý chí tạo lập ra các hệ quả pháp lý; họ cũng có quyền biểu lộ ý chí thông qua người khác để tự ràng buộc mình vào một quan hệ pháp luật nhất định. Nhưng mục đích của đại diện không chỉ liên quan tới các giao dịch. Do đó, những bất cập về phân loại đại diện theo phạm vi đại diện có xác định hay không xác định và quy định thẩm quyền đại diện trong trường hợp phạm vi đại diện không xác định liên quan tới cả đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền trong BLDS năm 2015 cần phải được khắc phục theo hướng quy định rõ ràng người đại diện (theo pháp luật và theo ủy quyền) chỉ có thẩm quyền liên quan tới quản trị tài sản của người được đại diện trong trường hợp phạm vi đại diện không xác định. Các hành vi liên quan tới quyền sở hữu là những hành vi đòi hỏi tính nghiêm túc, thận trọng và rõ ràng. Vì vậy, thẩm quyền đại diện liên quan tới quyền sở hữu phải được trao bởi chủ sở hữu. Việc chủ sở hữu không trao thẩm quyền này cho người đại diện mà pháp luật lại cho phép (như khoản 2, Điều 141 của BLDS năm 2015) thì đó là một sự xâm phạm thiếu chính đáng vào quyền sở hữu.

Ở nước ta, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, chế định đại diện không được chú ý đầy đủ bởi kinh tế tư nhân không phát triển, và sinh hoạt kinh tế hầu như chỉ dựa vào ý chí của Nhà nước. Do đó, các mối quan hệ xã hội không thực sự phức tạp. Kể từ khi chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, do đòi hỏi khách quan của các quan hệ xã hội, chế định đại diện đã được chú ý hơn. Tuy nhiên, việc điều chỉnh của BLDS về chế độ đại diện lại chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 còn bộc lộ một khiếm khuyết nữa là có sự mâu thuẫn giữa các khoản của Điều 141. Cụ thể, trong khi khoản 2 thừa nhận trường hợp phạm vi của đại diện không xác định, thì khoản 4 lại đưa ra đòi hỏi người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết phạm vi đại diện của mình. Có thể hiểu khoản 4 này đặt ra hai điều kiện đối với người đại diện khi tiến hành hoạt động đại diện: (1) thông báo với đối tác về việc đại diện cho ai; (2) thông báo về phạm vi đại diện. Xem các định nghĩa và giải thích về chế định đại diện trong pháp luật của các nước Anh, Mỹ nêu trên cho thấy, các định nghĩa đó chỉ nhằm giúp xác định quan hệ nào là quan hệ đại diện chứ không nhằm tới việc xác định các điều kiện của việc tiến hành hoạt động đại diện[5]. Vì vậy, việc bỏ quy định của khoản 4 Điều 141 của BLDS năm 2015 sẽ giúp cho chúng ta có một chế định đại diện gần gũi hơn với các hoạt động phức tạp trong nền kinh tế thị trường. Hơn nữa việc bỏ các quy định này làm cho các quy định tại khoản 2 và khoản 3, Điều 143 của BLDS năm 2015 trở nên có ý nghĩa. Các khoản này quy định như sau: “(2) Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch; (3) Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này”. Các quy định này cho thấy, nhà làm luật đã dự liệu trường hợp người thứ ba giao dịch với người đại diện không phải lúc nào cũng biết phạm vi đại diện của người đại diện.

Có ý kiến cho rằng  quy định của khoản 4, Điều 141 là cần thiết vì nó đặt ra nghĩa vụ cho người đại diện phải thông báo phạm vi đại diện của mình cho bên thứ ba giao kết hợp đồng để tránh gây những rắc rối. Tuy nhiên, việc ấn định nghĩa vụ này lại có thể làm nảy sinh các trường hợp rắc rối hơn. Cụ thể, nếu nghĩa vụ này bị vi phạm thì xem như người đại diện vi phạm điều cấm bởi vi phạm điều cấm cần được quan niệm là luật không cho hành động nhưng vẫn cứ hành động hoặc luật buộc hành động nhưng không hành động. Hợp đồng giao kết mà vi phạm điều cấm thì được coi là vô hiệu. Như vậy, trong trường hợp này, quy định của khoản 2 và khoản 3 Điều 143 của BLDS năm 2015 không còn ý nghĩa.

Ngoài ra, quy định của khoản 3 Điều 134 BLDS năm 2015: “Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập thực hiện”. Quy định này có thể hiểu, trong trường hợp pháp luật không quy định, người đại diện không nhất thiết phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, hay nói cách khác, người vô năng có thể là đại diện[6]. Như vậy, BLDS năm 2015 đã bỏ qua các giao dịch xác lập và thực hiện với người vô năng và bỏ qua các hậu quả pháp lý liên quan tới người được đại diện trong trường hợp lựa trao quyền cho người vô năng.

Trên đây là một số bất cập của chế định đại diện trong BLDS năm 2015. Có lẽ các bất cập này cần được khắc phục nhanh chóng để đáp ứng các đòi hỏi của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư mà Việt Nam đang chủ động vào cuộc./.

 

[1] Xem Ngô Huy Cương, Giáo trình luật hợp đồng phần chung (Dùng cho đào tạo sau đại học), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013, tr. 283.

[2] Lord Hailsham of St. Marylebone, Lord High Chancellor of Great Britain, Halsbury’s Laws of England, Fourth Edition, Volume I, Administrative Law, Amiralty, Affiliation and Legitimation, Agency, Agriculture, Butterworths, London, 1973, p. 418.

[3] The Restatement of Agency (Second).

[4] Eric Rasmusen, Agency Law and Contract Formation, Discussion Paper No. 323, 05/2001, Harvard Law School, http://www.law.harvard.edu/programs/olin_center/, ISSN 1045-6333, p. 4.

[5] Xem Ngô Huy Cương, Giáo trình luật hợp đồng phần chung (Dùng cho đào tạo sau đại học), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013, tr. 288.

[6] Xem Ngô Huy Cương, Giáo trình luật hợp đồng phần chung (Dùng cho đào tạo sau đại học), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013, tr. 291 – 292.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 02/2018.

 

Mới cập nhật

Cùng chủ đề