- Đặt vấn đề
Luật Tiếp cận thông tin (TCTT) năm 2016 được xây dựng trong khuôn khổ cụ thể hoá quyền TCTT (right of access to information) được xác lập trong Hiến pháp năm 2013 như một trong các quyền cơ bản của con người, của công dân. Thông tin được đề cập trong văn bản luật bao gồm thông tin liên quan đến các thiết chế công cộng và thông tin liên quan đến các chủ thể tư, đặc biệt là thông tin cá nhân. Theo tinh thần của Luật TCTT thì công dân có quyền thu thập thông tin liên quan đến cá nhân công dân khác trong những trường hợp được dự kiến và theo trình tự, thủ tục luật định. Tuy nhiên, cùng với quyền này, quyền bất khả xâm phạm về cuộc sống riêng tư cũng được hiến định tại Điều 21 Hiến pháp như là một trong các quyền cơ bản của con người, của công dân. Quyền bất khả xâm phạm về cuộc sống riêng tư được tái khẳng định tại Điều 38 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 như là một trong các quyền dân sự cơ bản. Ở các nước, quyền này còn được biết với tên gọi thông dụng hơn, là quyền riêng tư (right to privacy).
Cần nhấn mạnh rằng BLDS năm 2015 không đề cập đến quyền TCTT của chủ thể. Điều đó có nghĩa là quyền TCTT không phải là quyền dân sự. Nói cách khác, trong quan hệ giữa tư nhân và tư nhân, quyền TCTT không được thừa nhận cho chủ thể: không ai có quyền đòi hỏi người khác phải cung cấp thông tin cho mình ngoài ý muốn của người đó[1].
Rốt cuộc, quyền TCTT được ghi nhận và điều chỉnh bởi Luật TCTT chỉ là và chỉ có thể là quyền được xác lập trong quan hệ giữa người dân và nhà chức trách công[2]. Tình huống dự kiến mang tính chất giả định cơ bản là nhà chức trách công, thông qua vai trò của cơ quan nhà nước, nắm giữ thông tin và người dân có nhu cầu nắm bắt thông tin được cơ quan nhà nước nắm giữ. Luật có những quy định điều chỉnh ứng xử của các bên trong các trường hợp đặc thù, nhằm mục đích thoả mãn một cách hợp lý nhu cầu TCTT của người dân.
Cần lưu ý rằng, trong khi quyền TCTT không tồn tại trong cuộc sống dân sự, thì quyền bất khả xâm phạm về cuộc sống riêng tư lại được thừa nhận cả trong quan hệ giữa tư nhân và tư nhân, cũng như quan hệ giữa tư nhân và nhà chức trách công. Rõ hơn, không chỉ tư nhân có nghĩa vụ tôn trọng cuộc sống riêng tư của tư nhân khác mà Nhà nước cũng có nghĩa vụ đó. Với tư cách là người nắm quyền lực công và đảm nhận chức năng duy trì trật tự xã hội, nhà nước còn phải bảo đảm thông tin về cuộc sống riêng tư không bị thu thập trái phép, bị sử dụng trái phép gây thiệt hại cho chủ thể.
Việc thừa nhận cả quyền TCTT và quyền được tôn trọng đối với cuộc sống riêng tư trên bình diện quan hệ công tất yếu dẫn đến sự xung đột giữa hai quyền này. Vấn đề đặt ra đối với người làm luật khi xây dựng khung pháp lý cho hai quyền này là làm thế nào giải quyết xung đột một cách thoả đáng đối với các chủ thể theo đuổi các lợi ích trái ngược. Nói cách khác, luật phải được xây dựng như thế nào để, một mặt, đáp ứng nhu cầu của một chủ thể trong việc nắm bắt thông tin liên quan đến một tư nhân và, mặt khác, đảm bảo quyền của chủ thể tư nhân về việc giữ cho mình một cuộc sống riêng tư bình yên, không bị quấy nhiễu bởi sự tò mò của người khác.
- Nguyên tắc của quyềntiếp cận thông tin
Từ quyền tự do cơ bản đến quyền TCTT [3]. Một khi con người được thừa nhận có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, thì việc thừa nhận quyền được biết cho con người là việc làm tất yếu tiếp theo, như một hệ quả logic.
Trong chừng mực nào đó, quyền được biết có thể được hiểu là quyền của chủ thể trong việc tìm hiểu nhằm nhận diện rõ ràng và chính xác không gian sống. Biết rõ khung cảnh chung quanh mình, đặc biệt là về những yếu tố tác động đến sự tồn tại của mình, chủ thể có điều kiện tổ chức cuộc sống một cách hợp lý. Đặc biệt, chủ thể có thể xác định cách ứng xử, giao tiếp với ngoại cảnh cho phù hợp, nhằm trước hết là để tự bảo vệ chống rủi ro, hiểm họa và tối hậu là thực hiện mục tiêu sống của mình.
Nguyên tắc tự do TCTT và ngoại lệ hạn chế TCTT[4]. Quyền TCTT được nhìn nhận như một quyền có ý nghĩa đặc biệt trong điều kiện không phải thông tin nào hữu ích cho chủ thể cũng được bộc lộ. Chủ thể nắm giữ thông tin có thể tự nguyện quảng bá rộng rãi và miễn phí các thông tin mình nắm giữ, nhưng cũng có thể chỉ cung cấp thông tin mỗi khi được yêu cầu hoặc, thậm chí từ chối cung cấp.
Nếu thừa nhận quyền TCTT, một trạng thái của quyền được biết trong điều kiện thông tin không được bộc lộ, là hệ quả tất yếu của quyền tự do của con người, của công dân, thì quyền TCTT mang tính nguyên tắc. Điều đó cũng có nghĩa là quyền không cho phép TCTT mang tính ngoại lệ.
Với tư cách là người đảm nhận chức năng bảo đảm tính có tổ chức của xã hội, nhà chức trách có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc thực hiện quyền được biết của công dân trong khuôn khổ trật tự xã hội. Đặc biệt, môi trường giao tiếp xã hội trong mối quan hệ giữa nhà chức trách và công dân phải luôn có một giao diện minh bạch, vận hành trên cơ sở tôn trọng nghiêm ngặt luật chơi theo đó, “quyền được biết của công dân là nguyên tắc, quyền giữ bí mật của nhà chức trách là ngoại lệ”[5].
Được thừa nhận trong khung cảnh nguyên tắc tự do TCTT, quyền bất khả xâm phạm về cuộc sống riêng tư, được hiểu là quyền đòi hỏi không để cho thông tin về cuộc sống riêng tư được tự do nắm bắt, khai thác cũng mang tính ngoại lệ. Tất cả các ngoại lệ đều phải được áp dụng một cách nghiêm ngặt trong phạm vi do luật xác định; không ai được tuỳ tiện mở rộng phạm vi đó, đặc biệt là bằng cách áp dụng tương tự pháp luật.
- Nội dung quyềntiếp cận thông tin về cuộc sống riêng tư
3.1 Thông tin không được tiếp cận
Theo quy định của khoản 2 Điều 6 Luật TCTT, công dân không được TCTT mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác. Như vậy, có thể xếp các loại thông tin này thành ba nhóm sau:
– Loại thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại cho tính mạng;
– Loại thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại cho cuộc sống (lợi ích phi vật chất);
– Loại thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại cho tài sản của người có liên quan.
Liên quan đến thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại đến tính mạng của chủ thể, tình huống dự kiến là có một chủ thể đang muốn tước đoạt mạng sống của một người và đang tìm kiếm tung tích của người đó. Nếu chủ thể này là một tư nhân thì một mặt, cơ quan nắm giữ thông tin phải từ chối cung cấp thông tin được yêu cầu, mặt khác, chủ thể yêu cầu phải bị bắt giữ nếu đang ở trên phạm vi lãnh thổ do có hành vi chuẩn bị giết người. Vấn đề chỉ trở nên phức tạp trong trường hợp chủ thể yêu cầu cung cấp là nhà chức trách của một nước.
Có ý kiến cho rằng, thông tin về tài sản của một người cũng có thể là loại thông tin mà việc tiếp cận, trong một số trường hợp, có thể gây nguy hại đến tính mạng của chủ thể[6]. Nói nôm na, khi biết một người nào đó có nhiều của cải, thì bọn cướp có thể tập trung sự chú ý vào người đó và tìm cách xâm hại tính mạng người đó để chiếm đoạt tài sản. Chúng tôi không đồng tình với quan điểm này.
– Liên quan đến thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại đến cuộc sống của chủ thể, trước hết, cần hiểu “cuộc sống” trong ngữ cảnh của điều luật là sự sinh hoạt, là tập hợp các quan hệ giao tiếp xã hội, chứ không phải là sự sống, sự tồn tại. Sự sống, sự tồn tại của chủ thể gắn với tính mạng và các thông tin liên quan đã được xếp vào một nhóm riêng. Trong điều kiện luật phân biệt “cuộc sống” và “tài sản” khi nói về đối tượng của hành vi xâm phạm, thì “cuộc sống” còn phải được hiểu là tập hợp các quan hệ giao tiếp phi tài sản.
Về mặt lý thuyết, các thông tin về tài sản của một người có thể bị khai thác làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống, được hiểu là các quan hệ phi tài sản, của người đó; nhưng trên thực tế, nỗi lo này không có cơ sở, như sẽ được phân tích ở phần sau. Nói cách khác, các thông tin mà việc tiếp cận có thể gây nguy hại đến cuộc sống của một người chỉ có thể là các thông tin về các quan hệ phi tài sản. Điều 7 Luật TCTT liệt kê một loạt các quan hệ phi tài sản của tư nhân mà việc TCTT liên quan được cho phép có điều kiện.
Vấn đề còn lại là hiểu như thế nào cho đúng về cái gọi là “nguy hại đến cuộc sống” của chủ thể một khi thông tin được tiếp cận. Trên thực tế, cơ quan nắm giữ thông tin có thể cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức chủ quản của người đó, nhưng từ chối cung cấp thông tin đối với người yêu cầu mà được cho là có mục đích sử dụng không rõ ràng. Thật ra, trong điều kiện quyền TCTT mang tính nguyên tắc và chưa có đủ bằng chứng thuyết phục về nguy cơ rành rành đối với cuộc sống của một người, nghĩa là đối với lợi ích chính đáng của người đó, thì việc cung cấp thông tin là nghĩa vụ của cơ quan nắm giữ thông tin.
– Trường hợp việc TCTT về tài sản của một người có thể gây nguy hại cho tài sản của người đó.
Trong xã hội có tổ chức và thượng tôn luật pháp, tất cả mọi thành viên đều phải được hưởng sự suy đoán là những con người lương thiện, văn minh và biết ứng xử đúng mực. Về phương diện quan hệ sở hữu, mỗi thành viên đều phải được coi là người biết vun đắp tư hữu cho mình, đồng thời biết tôn trọng tư hữu của người khác. Vả lại, mỗi người, với tư cách là chủ sở hữu tài sản, đều có quyền tự mình bảo vệ an toàn tài sản của mình, cũng như có quyền yêu cầu cơ quan công lực bảo vệ, mỗi khi tài sản bị xâm hại hoặc có nguy cơ rõ ràng bị xâm hại. Bên cạnh đó, pháp luật cần phải đặt nền tảng cho sự hình thành và phát triển một không gian mở về phương diện quan hệ tài sản, để mỗi người, với tư cách là chủ sở hữu, có điều kiện giao lưu, trao đổi với sự hiểu biết hỗ tương hợp lý và một cách thoải mái nhất có thể.
Ở các nước phát triển người ta bắt đầu các cuộc tranh cãi pháp lý với sự thắng thế của quan niệm, theo đó, các thông tin về tài sản của cá nhân là một phần của cuộc sống riêng và chỉ được bộc lộ nếu có sự đồng ý của đương sự. Tuy nhiên, theo thời gian, người ta hiểu ra rằng của cải không phải từ trên trời rơi xuống, mà do xã hội tạo ra từ lao động có tổ chức của con người; vậy thì không có lý do gì xã hội lại không có quyền biết nó đang ở đâu, trong tay ai.
Bước đầu, người ta cho phép công bố rộng rãi các thông tin về tài sản của những người nổi tiếng trong thế giới kinh doanh, coi đó như một trong những biện pháp minh bạch hoá đời sống kinh tế. Về sau, người ta thừa nhận thấy sự minh bạch, trong chừng mực không xung đột với các nguyên tắc tôn trọng sự sâu kín của đời tư, là cần thiết đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chứ không chỉ riêng trong lĩnh vực kinh doanh. Thế là pháp luật cho phép công bố, lưu hành công khai thông tin liên quan đến tài sản của tất cả mọi người.
Tuy nhiên, nếu việc công khai thông tin cá nhân về tài sản không bị coi là xâm phạm đời tư, thì việc khai thác các thông tin đó, nhằm thoả mãn sự tò mò của công chúng, chủ yếu vì mục đích thương mại, là hành vi không lương thiện: nó giúp một người làm giàu, trong khi người khác chẳng được gì ngoài sự phiền phức, đôi khi, còn bị tổn thương về tinh thần và cả vật chất. Những hành vi đó có thể bị chế tài.
Ở Việt Nam, thông tin về tài sản cá nhân là chuyện đời tư hay đời công là vấn đề cho đến nay vẫn chưa được giải quyết ngã ngũ trong pháp luật hiện hành[7]. Tuy nhiên, điều chắc chắn là nếu coi thông tin về tài sản là một phần của bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, thì các thông tin đó không bị cấm tiếp cận mà thuộc loại tiếp cận có điều kiện, được quy định tại Điều 7 Luật TCTT. Trong khi đó, Luật xác định việc cấm tiếp cận những thông tin có khả năng gây nguy hại đến tài sản của chủ thể, tại Điều 6. Điều đó có nghĩa là có những thông tin về tài sản còn mật hơn cả bí mật cá nhân, bí mật đời tư. Đó là loại thông tin gì?
Chắc chắn đó không phải là thông tin về các tài sản thuộc diện phải đăng ký như nhà, đất, ô tô, xe máy, tàu biển,… Việc đăng ký tài sản trong luật hiện hành có tác dụng công bố tình trạng pháp lý của tài sản cho toàn xã hội, bao gồm lai lịch chủ sở hữu.
Còn hai loại thông tin mà cơ quan nhà nước có thể nắm giữ. Đó là thông tin về tổng giá trị tài sản thuộc quyền sở hữu của một người và thông tin về các tài sản không phải đăng ký.
Liên quan đến các tài sản không phải đăng ký, rất khó để hình dung trong hoàn cảnh nào các thông tin tài sản cần được giữ bí mật. Có chăng, đó là trường hợp tài sản được cất giấu ở một nơi nào đó không phải là không gian riêng tư, kiểu như kho báu trong chuyện cổ; bởi nếu tài sản được cất giấu ở nơi riêng tư, thì đã có quy định về bảo vệ bí mật đời sống riêng tư. Trong một tình huống khác, chủ thể chủ động cung cấp thông tin về mật mã tài khoản cá nhân cho cơ quan nhà nước. Việc cơ quan nhà nước có hay không có quyền chia sẻ thông tin này với người khác tuỳ thuộc vào thoả thuận giữa chủ tài khoản và cơ quan nắm giữ thông tin; luật không can thiệp vào quan hệ này.
Liên quan đến thông tin về tổng giá trị tài sản của một người, có thể nói ngay rằng không ở một nước văn minh nào mà thông tin loại này được coi là thông tin mật. Thậm chí, những người giàu nhất còn được xếp hạng theo mức độ giàu có và bằng xếp hạng được công bố trên các phương tiện truyền thông. Trong khung cảnh luật thực định, khi đọc điều quy định cấm này, người ta có xu hướng nghĩ rằng người làm luật muốn đề cập chủ yếu đến vấn đề TCTT liên quan đến tài sản quan chức.
Như vậy, có thể nói rằng, quy định cấm tiếp cận đối với thông tin trong trường hợp việc tiếp cận có thể gây nguy hại cho tài sản của người khác tỏ ra là sự hạn chế thiếu thuyết phục đối với quyền TCTT của chủ thể, cần được gỡ bỏ.
3.2 Thông tin được tiếp cận có điều kiện
Điều 7 Luật TCTT quy định các thông tin được tiếp cận có điều kiện gồm:thông tin về bí mật kinh doanh, thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình.
Khoản 23 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi năm 2009) định nghĩa về bí mật kinh doanh như sau: “Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh”.
Các khái niệm bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được xây dựng trong khuôn khổ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 không làm rõ các khái niệm này. Điều 38 BLDS năm 2015 chỉ nêu các khái niệm, sau đó có các quy định liên hệ đến thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi. Điều chắc chắn là một khi đã được gọi là bí mật, là riêng tư, thì các thông tin ấy, về bản chất, không phải là những thông tin có xu hướng được bộc lộ cho công chúng[8]. Bản thân việc cơ quan nhà nước nắm giữ thông tin cũng phải xuất phát từ yêu cầu của công vụ, của lợi ích chung hoặc khi cần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Chẳng hạn khi xét tuyển dụng một người vào một cơ quan công quyền thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia, người tuyển dụng có quyền yêu cầu ứng viên khai rõ về gia thế, về lịch sử của bản thân,… từ đó, cơ quan công quyền có điều kiện nắm giữ thông tin cá nhân mang tính bí mật.
Có thể thừa nhận các quan hệ giao tiếp trong khuôn khổ đời sống gia đình, không gian sống riêng tư (nhà riêng, phòng riêng), các mối quan hệ xã hội riêng tư (bè bạn, tình cảm), hồ sơ sức khoẻ cá nhân,… là các yếu tố thuộc đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Trái lại, việc kết hôn, ly hôn, quá trình học tập của một người không thể coi là chuyện riêng tư, bởi bản thân những việc ấy diễn ra công khai tại nơi công cộng; kết quả giao dịch cũng được công bố rộng rãi (tổ chức hôn lễ, công bố bản án ly hôn, niêm yết kết quả học tập, thi cử,…).
Tình huống dự kiến là cơ quan nhà nước đang nắm giữ các thông tin được liệt kê tại khoản 1 và 2 Điều 7 trên đây và có một chủ thể nào đó mong muốn thu thập thông tin liên quan. Luật đòi hỏi sự đồng ý của người mà thông tin đề cập đến như là nhân vật chính như là điều kiện để cơ quan nắm giữ thông tin cung cấp thông tin cho người có yêu cầu.
Với quy định như trên, trong trường hợp thông tin có liên quan đến người mất năng lực hành vi, thì việc cung cấp thông tin, trên nguyên tắc là không thể được, do người mất năng lực hành vi không có quyền tự mình giao dịch; người giám hộ, về phần mình, không được luật trao quyền thay mặt người giám hộ đồng ý về việc cung cấp thông tin. Trong trường hợp thông tin liên quan đến người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, thì việc cung cấp thông tin lệ thuộc vào năng lực hành vi của người này, được xác định bằng một quyết định của toà án: nếu toà án cho phép người này tự mình quyết định việc cung cấp thông tin, thì người này được quyền đồng ý để người khác TCTT.
Trong trường hợp người chưa thành niên, cần phân biệt người này còn hay không còn ở độ tuổi trẻ em, tức là chưa đủ hay đủ 16 tuổi. Nếu đã đủ 16 tuổi, thì người chưa thành niên có quyền tự mình quyết định việc cung cấp thông tin cá nhân cho người khác (khoản 4, Điều 21 BLDS). Nếu chưa đủ 16 tuổi, nhưng đã đủ 7 tuổi, người chưa thành niên có quyền đồng ý hay không đồng ý để người đại diện theo pháp luật quyết định việc cung cấp thông tin cá nhân (khoản 11, Điều 6 Luật Trẻ em). Người đại diện theo pháp luật chỉ có quyền quyết định việc cung cấp thông tin mà không cần sự đồng ý của trẻ trong trường hợp trẻ chưa đủ 7 tuổi; nhưng việc đó phải được thực hiện vì lợi ích của trẻ (điểm c, khoản 1, Điều 58 BLDS).
Ngoài ra, khoản 2 Điều 7 Luật TCTT cũng quy định trường hợp cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khoẻ của cộng đồng, cơ quan nhà nước nắm giữ thông tin thuộc loại nói trên có thể cung cấp các thông tin ấy mà không cần sự đồng ý theo luật định. Tuy nhiên, việc cung cấp thông tin trong trường hợp này cần được sự cho phép của luật có liên quan. Điều đó có nghĩa là nếu luật có liên quan không cho phép, thì dù lợi ích công cộng là rõ ràng, việc cung cấp thông thông tin mà không có sự đồng ý cần thiết cũng không thể được thực hiện./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ luật Dân sự năm 2015
- Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009
- Luật TCTT năm 2016
- Luật Trẻ em năm 2016
- Nghị định số 13/2018/NĐ-CP ngày 23/01/2018 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật TCTT.
- Access Info Europe, History of Right of Access to Information, https://www.access-info.org/uncategorized/10819 [truy cập ngày 16/05/2018].
- Anders Chydenius’ Legacy Today, The World’s First Freedom of Information Act, Kokkola, Phần Lan, 2006. https://www.access-info.org/wp-content/uploads/worlds_first_foia.pdf. [truy cập ngày 16/05/2018].
- B. Mclachlin, Access to Information and Protection of Privacy in Canadian Democracy, https://www.scc-csc.ca/judges-juges/spe-dis/bm-2009-05-05-eng.aspx [truy cập ngày 16/05/2018].
- G. Cornu, Droit civil – Les personnes, Montchrestien, Paris , 2007.
- Nguyễn Ngọc Điện,Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2010.
- Thái Thị Tuyết Dung, Quyền riêng tư trong thời đại công nghệ thông tin,https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2012/07/02/quyen-ring-tu-trong-thoi-dai-cng-nghe-thng-tin/[truy cập ngày 16/05/2018].
- Thái Thị Tuyết Dung,Quyền TCTT và quyền riêng tư ở Việt Nam và một số quốc gia, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, 2012.
[1]Về mặt lý thuyết, có thể trường hợp hai bên xác lập một thoả thuận, theo đó một bên cam kết cung cấp cho bên kia tất cả các thông tin liên quan đến cuộc sống riêng tư của mình, một khi bên kia yêu cầu. Một thoả thuận như thế không có tính pháp lý và không thể được bắt buộc thực hiện bằng một bản án của toà án.
[2] Việc xác định quyền TCTT chỉ tồn tại trong quan hệ công có ý nghĩa rất rõ nét trong trường hợp cần TCTT liên quan đến tài khoản ngân hàng. Với tư cách là một chủ thể tư nắm giữ thông tin về tài khoản của khách hàng, ngân hàng không có trách nhiệm và cũng không có quyền cung cấp thông tin liên quan cho bất kỳ chủ thể tư nào khác. Trái lại, nếu thông tin tài khoản tư nhân được cơ quan nhà nước nắm giữ một cách hợp lệ, thì trong khuôn khổ thực hiện chức năng của mình, cơ quan này có quyền cung cấp thông tin liên quan cho cả chủ thể công và chủ thể tư theo trình tự, thủ tục luật định, trừ trường hợp luật có quy định cấm rành mạch đối với việc cung cấp thông tin loại này.
[3] Tham khảo Anders Chydenius’ Legacy Today, The World’s First Freedom of Information Act, Kokkola, Phần Lan, 2006. Anders Chydenius’ Legacy Today là một quỹ nghiên cứu luật học phi lợi nhuận mang tên nhà chính trị Thiên chúa giáo Phần Lan cổ vũ cho tự do thông tin và tự do báo chí. Tập sách này được xuất bản dưới sự tài trợ của Quỹ nhân kỷ niệm 240 năm Vương quốc Thuỵ Điển ban hành luật TCTT đầu tiên của thế giới (1766). Phiên bản điện tử của tập sách này có thể được tải về miễn phí bằng cách truy cập trang web https://www.access-info.org/wp-content/uploads/worlds_first_foia.pdf.
Về tóm tắt quá trình phát triển quyền TCTT trên thế giới, như là một quyền chính trị – pháp lý: xem: History of Right of Access to Information, https://www.access-info.org/uncategorized/10819 (truy cập ngày 16/05/2018). Tài liệu đáng chú ý về quyền được thông tin trong luật Việt Nam: Thái Thị Tuyết Dung, Quyền TCTT và quyền riêng tư ở Việt Nam và một số quốc gia, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2012.
[4] Tham khảo: B. Mclachlin, Access to Information and Protection of Privacy in Canadian Democracy, thông điệp của Chánh án Toà án tối cao Canada ngày 05/9/2009, https://www.scc-csc.ca/judges-juges/spe-dis/bm-2009-05-05-eng.aspx(truy cập ngày 16/05/2018).
[5] Nguyễn Ngọc Điện, Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, Nxb Chính trị Quốc gia, 2010, tr. 148 và 149.
[6] Xem http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/tin-tuc-thoi-su/cong-khai-tai-san-tai-noi-cu-tru-nhan-dien-rui-ro-3342927/(truy cập ngày 15/5/2018)
[7] Xem: http://plo.vn/thoi-su/chinh-tri/cong-khai-tai-san-quan-chuc-cho-toan-dan-la-vi-hien-498459.html (truy cập ngày 14/5/2018).
[8] Về các phân tích liên quan đến nội dung của quyền riêng tư theo học thuyết: xem Thái Thị Tuyết Dung, Quyền riêng tư trong thời đại công nghệ thông tin, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2012/07/02/quyen-ring-tu-trong-thoi-dai-cng-nghe-thng-tin/ (truy cập ngày 15/5/2018).
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 15/2018.
PGS, TS. Nguyễn Ngọc Điện – Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học hải ngoại (Pháp); GV. Trường Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh