Xác định người đại diện của pháp nhân trong tố tụng hình sự Pháp và một vài gợi ý trong tố tụng hình sự của Việt Nam

Xác định người đại diện của pháp nhân trong tố tụng hình sự (TTHS) đối với pháp nhân là một trong những vấn đề quan trọng trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) pháp nhân. Bởi vì trong TTHS, xuất phát từ đặc thù của pháp nhân – là một chủ thể pháp luật được tạo thành từ các thể nhân, dẫn tới mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu TNHS phải được tiến hành thông qua một thể nhân – người đại diện. Việc thực hiện các hoạt động tố tụng của pháp nhân thông qua người đại diện không phải là đặc thù của TTHS mà cả trong tố tụng dân sự, thương mại. Nghiên cứu thực tiễn TTHS của các quốc gia khác mang lại cho chúng ta những kinh nghiệm hữu ích.

Xác định người đại diện của pháp nhân trong tố tụng hình sự Pháp và một vài gợi ý trong tố tụng hình sự của Việt Nam

TNHS đối với pháp nhân được áp dụng tại Pháp từ năm 1994 với Bộ luật Hình sự (BLHS) mới ngày 22/7/1992[1]. Theo thống kê của Bộ Tư pháp[2] Pháp, trong năm 2015 có 80.600 pháp nhân liên quan đến thủ tục TTHS pháp nhân (bao gồm cả khởi tố, điều tra, truy tố, đình chỉ vụ án…) của Viện Công tố. Con số này chiếm 4,6% trong tổng số 1.8 triệu vụ việc hình sự do ngành Công tố thụ lý. Con số 80.600 pháp nhân này cũng tương đương 28% số chủ thể vi phạm pháp luật lao động, 25% số chủ thể vi phạm pháp luật tài chính và kinh tế, và 16% số vụ án về môi trường.

Điều 121-2 BLHS Cộng hòa Pháp quy định: Các pháp nhân, trừ Nhà nước, phải chịu TNHS về những tội phạm được thực hiện bởi các cơ quan hoặc người đại diện của pháp nhân và vì lợi ích của pháp nhân theo cách phân loại tại các điều từ 121-4 đến 121-7 BLHS”.

Theo Điều 706-43 Bộ luật TTHS Pháp thì “việc truy tố pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó vào thời điểm bị truy tố, người này sẽ đại diện cho pháp nhân trong mọi hoạt động tố tụng”. Trên thực tế, có thể có 03 kiểu “người” đại diện của pháp nhân: người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, người được pháp nhân ủy quyền, người được Tòa án chỉ định thông qua ủy quyền tư pháp.

  1. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân

Trên thực tế, cần phân biệt trường hợp đại diện thông thường và trường hợp pháp nhân đang tiến hành thủ tục phá sản.

1.1.            Trường hợp thông thường

Theo quy định tại khoản 1, Điều 706-43 Bộ luật TTHS Pháp: “Việc truy tố pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó vào thời điểm bị truy tố, người này sẽ đại diện cho pháp nhân trong mọi hoạt động tố tụng”. Như vậy, trong luật của Pháp, vấn đề người đại diện của pháp nhân chỉ đặt ra vào thời điểm tổ chức này là đối tượng của hoạt động truy tố. Cũng có nghĩa là, không cần có người đại diện của pháp nhân trong giai đoạn điều tra của cảnh sát, dù việc triệu tập xét hỏi đại diện của pháp nhân là hoàn toàn có thể diễn ra.

Cần nhắc lại rằng, theo quy định của Điều 121-2 BLHS Pháp về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân: “Các pháp nhân, trừ Nhà nước, phải chịu TNHS về những tội phạm được thực hiện bởi các cơ quan hoặc người đại diện của pháp nhân và vì lợi ích của pháp nhân theo cách phân loại tại các điều từ 121-4 đến 121-7 BLHS”. Trong luật hình sự Pháp, hành vi phạm tội của pháp nhân phải được thực hiện bởi một cơ quan hoặc một đại diện của pháp nhân. Do đó, có hai vấn đề đặt ra: thứ nhất, cần phải xác định ai là chủ thể cụ thể của hành vi cấu thành tội phạm được quy trách nhiệm cho pháp nhân. Thứ hai, cần xác định ai là người đủ tư cách để biểu đạt nhân danh pháp nhân bị truy cứu, đại diện và bảo vệ lợi ích của pháp nhân đó trước Tòa án.

Trong TTHS, người đại diện theo pháp luật là người mà pháp luật hoặc điều lệ của công ty trao quyền đại diện cho pháp nhân về mặt tố tụng. Về nguyên tắc, đó là những cá nhân (thể nhân) có tư cách lãnh đạo pháp nhân đó. Ví dụ: thị trưởng của một xã, giám đốc một trung tâm y tế, người quản lý công ty hợp danh, người quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ tịch và tổng giám đốc của công ty cổ phần, chủ tịch một hiệp hội… Cũng có thể xem người quản lý tạm thời của một pháp nhân là người đại diện theo luật của pháp nhân này[3].

Không phải luôn dễ dàng xác định được người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, ví dụ như trường hợp liên quan đến một khu cảng tự trị[4]. Ban đầu, người đại diện của pháp nhân này là Chủ tịch Hội đồng quản trị của cảng, nhưng trong quá trình điều tra thì người đại diện theo luật lại là Tổng giám đốc của cảng, căn cứ theo quy định tại Điều 113-8 Bộ luật về Cảng biển.

– Xác định người đại diện của pháp nhân: Một công ty nước ngoài có văn phòng đại diện tại Pháp, bị truy cứu về tội gian lận thuế và rửa tiền. Vì giám đốc văn phòng đại diện của công ty này không phải là người đại diện theo luật theo quy định tại Điều 706-43 của Bộ luật TTHS, nên để loại trừ trường hợp vô hiệu của việc truy tố này, Tòa án lập luận rằng, Sổ bộ Đăng ký kinh doanh và doanh nghiệp (Registre du commerce et des sociétés[5]) ghi rõ người này là lãnh đạo của pháp nhân nước ngoài nói trên, và chính người này cũng thừa nhận mình là người đại diện của công ty tại Pháp[6].

– Trường hợp có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật: Trong khi quy định của luật chỉ dự liệu tình huống pháp nhân có một đại diện hợp pháp, thì trong thực tế có thể xảy ra trường hợp pháp nhân có nhiều người lãnh đạo và do đó có nhiều đại diện hợp pháp. Trường hợp này thường gặp ở các công ty cổ phần (Điều L. 221-3 Bộ luật Thương mại Pháp), công ty trách nhiệm hữu hạn (Điều L. 223-18 Bộ luật Thương mại Pháp). Trong những trường hợp này, vấn đề đặt ra là xác định người đại diện theo luật của một pháp nhân có nhiều người cùng lãnh đạo.

Lý do đặt ra vấn đề “đại diện” của pháp nhân nằm ở sự cần thiết để cho pháp nhân, thông qua một thể nhân, có thể thể hiện ý chí của mình và đưa ra các giải thích liên quan đến hành vi phạm tội và liên quan đến trách nhiệm có thể phát sinh từ hành vi đó. Do đó, Tòa án chỉ cần triệu tập một trong số những người đại diện theo luật của pháp nhân, hoạt động tố tụng không cần tiến hành với tất cả các đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị truy tố.

Đây là quan điểm trong một phán quyết của Tòa án (Phán quyết của Tòa Phúc thẩm Amiens, ngày 29/9/2010) trong vụ án liên quan đến một hợp tác xã. Tòa án triệu tập một trong số những người quản lý của cơ sở này ra tòa. Hợp tác xã này cho rằng, thủ tụng tố tụng vô hiệu vì cần phải triệu tập những người quản lý khác, nhưng tòa phúc thẩm đã bác bỏ lập luận trên và cho rằng, người quản lý bị Tòa triệu tập kia đã nhận mình có tư cách đại diện theo pháp luật trong suốt quá trình điều tra, và ông này là người đại diện hợp lệ của pháp nhân kia, và điều này không ảnh hưởng đến lợi ích của pháp nhân bị truy tố.

           – Người đại diện hợp pháp tại thời điểm pháp nhân bị truy tố

Điều 706-43 của Bộ luật TTHS Pháp quy định người đại diện theo pháp luật đại diện cho pháp nhân trước Toà án là người có tư cách đại diện theo pháp luật tại thời điểm truy tố. Trong thực tế, người đại diện theo pháp luật tại thời điểm truy tố có thể khác người đại diện vào thời điểm diễn ra hành vi phạm tội. Ngoài ra, việc truy tố bắt đầu vào một thời điểm cụ thể, nhưng sau đó hoạt động tố tụng có thể diễn ra trong một giai đoạn nhất định, và trong thời gian đó có thể có những thay đổi về mặt lãnh đạo của pháp nhân. Khoản 4 Điều 706-43, Bộ luật TTHS Pháp 1992 đã dự liệu trường hợp này, khi quy định rằng, trong trường hợp thay đổi người đại diện theo pháp luật trong quá trình tố tụng, người đó phải thông báo cho Tòa án thông tin cá nhân của mình bằng thư bảo đảm. Chúng ta có thể suy luận rằng, nếu không thông báo cho Tòa án đúng quy cách về sự thay đổi người đại diện, mọi hoạt động tố tụng do người đại diện mới thực hiện sẽ vô hiệu.

1.2.            Trường hợp pháp nhân đang tiến hành thủ tục phá sản

Việc xác định người đại diện của pháp nhân đang tiến hành thủ tục phá sản là vấn đề gây tranh cãi trong giới luật học cũng như thực tiễn xét xử của các Tòa án tại Pháp. Một số phán quyết của các Tòa án đi theo hướng xem người quản lý, thanh lý tài sản[7] là đại diện của pháp nhân đang tiến hành thủ tục phá sản[8]; một số bản án lại cho rằng người quản lý, thanh lý tài sản chỉ là đại diện của các chủ nợ chứ không phải là đại diện của công ty[9], nên không thể là đại diện theo pháp luật của công ty trước Tòa án và trường hợp này cần phải có một người đại diện do Tòa án chỉ định (Ủy quyền tư pháp), căn cứ theo khoản 4, Điều 706-43 Bộ luật TTHS. Tòa Phá án Pháp (Cour de cassation – cơ quan xét xử cao nhất của Pháp) thiên về lựa chọn này trong phán quyết ngày 10/02/2010, khi cho rằng, căn cứ vào Điều L.622-9 của Bộ luật Thương mại thì “Người quản lý, thanh lý tài sản do Tòa Thương mại chỉ định khi tiến hành thủ tục phá sản doanh nghiệp chỉ đại diện cho con nợ (pháp nhân) trong các hoạt động liên quan đến tài sản. Trong vụ việc liên quan đến một công ty[10] đang tiến hành thủ tục phá sản và do một người quản lý, thanh lý tài sản đại diện,công ty này bị truy tố về tội vô ý giết người, Tòa Phúc thẩm cho rằng, người quản lý, thanh lý tài sản có đủ tư cách để đại diện cho pháp nhân. Nhưng Tòa Phá án lại bác bỏ quan điểm này và cho rằng, khi thủ tục tố tụng chống lại một pháp nhân đang tiến hành thủ tục phá sản, thì Tòa án phải chỉ định một người đại diện để thay mặt pháp nhân đó.

  1. Pháp nhân được đại diện bởi một cá nhân được ủy quyền

Theo quy định của khoản 2 Điều 796-43 Bộ luật TTHS thì “pháp nhân cũng có thể được đại diện bởi bất kỳ người nào được ủy quyền cho việc này, theo quy định của pháp luật hay điều lệ của pháp nhân”. Khoản 3 Điều 796-43 quy định rằng, người đại diện theo ủy quyền này phải thông báo cho Tòa án thụ lý vụ việc về việc mình được ủy quyền. Như vậy, một người khác có thể được ủy quyền để đại diện cho pháp nhân trước Tòa án. Vấn đề đặt ra là những ai có thể đại diện theo ủy quyền.

Khoản 2 Điều 796-43 quy định rằng, việc đại diện cho pháp nhân phải được thực hiện phù hợp với quy định của luật hoặc quy chế của pháp nhân.

Như vậy, khái niệm ủy quyền dẫn chiếu tới tổ chức nội bộ của pháp nhân. Từ đây, có thể suy ra rằng, người đại diện theo dạng ủy quyền có thể là thành viên của tổ chức này được ủy nhiệm đại diện cho tổ chức trong suốt quá trình tố tụng. Đó có thể là người đứng đầu chi nhánh được ủy quyền bởi chủ tịch điều hành, giám đốc nhân sự, giám đốc khu vực của doanh nghiệp. Về cơ bản thì mọi nhân viên của pháp nhân đều có thể là đại diện theo ủy quyền trước pháp luật nếu có một ủy quyền cho việc này.

Trường hợp ủy quyền cho luật sư: Liệu những người không phải là thành viên của pháp nhân có thể đại diện cho chủ thể này trong TTHS? Ví dụ như trường hợp của luật sư. Đây là vấn đề gây tranh cãi. Trong Thông tư ngày 14/05/1993[11], các nhà làm luật không cấm bất kỳ chủ thể nào làm đại diện cho pháp nhân, có nghĩa là luật sư có thể làm người đại diện của pháp nhân trong tố tụng. Nhưng một số người khác không tán thành quan điểm này và lập luận một cách thuyết phục rằng, Điều 706-43 của Bộ luật TTHS chỉ dự liệu về đại diện do luật định hoặc do quy chế của pháp nhân quy định mà không quy định về đại diện theo hợp đồng (thỏa thuận). Án lệ thiếu rõ ràng ở điểm này, vì khi đọc một số phán quyết khiến người ta nghĩ rằng luật sư có thể đại diện cho pháp nhân (ví dụ: Tòa Phúc thẩm Paris, ngày 15/1/2001, Tòa Phúc thẩm Poitiers, 19/6/2003)[12].

Tuy nhiên, cần phân biệt việc đại diện cho pháp nhân trong khuôn khổ truy cứu pháp nhân và đại diện cho pháp nhân về mặt tranh tụng trước tòa (bảo vệ quyền lợi). Hình thức đại diện trong tiến trình tố tụng chỉ có thể được đảm trách bởi một thành viên của pháp nhân, bởi vì luật sư chỉ là người đại diện cho pháp nhân với tư cách là người bào chữa, chứ không thể nhân danh pháp nhân trong mọi vấn đề, cũng như không thể trình bày trước Tòa mọi vấn đề.

  1. Trường hợp cơ quan tố tụng chỉ định người đại diện (y quyền tư pháp)

Điều 706-43 của Bộ luật TTHS dự liệu hai trường hợp mà pháp nhân có thể được đại diện bởi một chủ thể do cơ quan tố tụng chỉ định. Trường hợp thứ nhất là khi không ai có đủ tư cách để đại diện cho pháp nhân, trường hợp thứ hai là khi người đại diện theo luật của pháp nhân cùng bị truy tố bởi cùng một vụ việc.

3.1 Trường hợp không có người đại diện theo pháp luật

Theo Điều 706-43 của Bộ luật TTHS 1992 thì việc cơ quan tố tụng chỉ định một đại diện của pháp nhân tham gia tố tụng là trường hợp hi hữu. Đó là trường hợp đặc biệt khi không có người đại diện theo luật nào có thể đại diện và cũng không thể chỉ định được một cá nhân nào theo diện đại diện theo ủy quyền. Ví dụ như trường hợp người đại diện theo luật bị chết hoặc bỏ trốn.

Tuy nhiên, ngay cả trong những trường hợp này, có thể hiểu rằng, việc thiếu người đại diện theo pháp luật chỉ là tạm thời. Vì pháp nhân có những cơ chế nội bộ để chỉ định một người thực hiện vai trò đại diện cho pháp nhân trong tố tụng. Nói cách khác, khó khăn chỉ có thể nảy sinh nếu vào thời điểm đích xác khi tiến hành truy cứu TNHS, không còn đại diện nào có thể thay mặt pháp nhân. Ngược lại, nếu người đại diện theo pháp luật trốn tránh nghĩa vụ của mình bằng cách từ chối, ví dụ từ chối tới làm việc theo triệu tập của thẩm phán điều tra hoặc Tòa án thì không được xem là trường hợp không có cá nhân nào đủ tư cách đại diện cho pháp nhân. Và trong trường hợp này, Tòa án không thể chỉ định người khác thay thế.

Thủ tục chỉ định phải được thực hiện thông qua Quyết định của Chánh án Tòa sơ thẩm quyền rộng[13] (TGI) dựa theo đề nghị của bên Công tố, của Thẩm phán điều tra hay của nguyên đơn dân sự.

Vai trò của người đại diện là đại diện cho pháp nhân trong khuôn khổ TTHS liên quan đến pháp nhân đó. Có nghĩa là nhiệm vụ của người này vẫn tiếp tục cho đến khi hoàn thành thủ tục này, trừ khi pháp nhân chỉ định một chủ thể khác mới đủ tư cách đại diện trước pháp luật. Nhưng trường hợp này phải do Chánh án Tòa án thẩm quyền rộng ra quyết định.

3.2. Trường hợp pháp nhân và người đại diện cùng bị truy cứu về cùng một vụ việc

Điều 706-43 Bộ luật TTHS của Pháp quy định: Trong trường hợp truy tố pháp nhân và người đại diện theo pháp luật của pháp nhân về cùng một hành vi, thì người đại diện theo pháp luật này có thể yêu cầu Chánh án Tòa án chỉ định một người đại diện khác (ủy quyền tư pháp).

  1. Một số gợi ý cho Việt Nam

BLHS năm 2015 và Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018. Một trong những vấn đề mới nảy sinh trong các Bộ luật này là việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại. Từ việc nghiên cứu bước đầu kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp  – quốc gia giàu thực tiễn pháp lý trong lĩnh vực này – chúng tôi nêu một số gợi ý khi thi hành BLHS năm 2015 và Bộ luật TTHS năm 2015 của Việt Nam.

Thứ nhất, xác định thời điểm người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phải tham gia tố tụng: Cũng như pháp luật hình sự Cộng hòa Pháp, việc truy cứu TNHS pháp nhân trong pháp luật Việt Nam cũng được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó (Điều 434 Bộ luật TTHS năm 2015), nhưng Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền (khoản 1 Điều 434). Tuy nhiên, trong thực tiễn, người đại diện vào thời điểm pháp nhân có hành vi phạm tội, bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có thể là những người khác nhau. Việc xác định rõ người đại diện vào một thời điểm cụ thể của quá trình tố tụng như pháp luật hình sự của Pháp sẽ hợp lý hơn, để tránh trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân từ chối tham gia tố tụng vì lý do luật quy định không rõ ràng. Thực tế, việc phải tham gia tố tụng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống cá nhân và công việc của người này, nên việc người này tìm lý do để từ chối tham gia tố tụng là điều dễ hiểu.

Thứ hai, trường hợp có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật: Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Như vậy, trong pháp luật Việt Nam, pháp nhân thương mại có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật. Bộ luật TTHS năm 2015 đã dự liệu trường hợp pháp nhân có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật thì “cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng” (khoản 1 Điều 434 Bộ luật TTHS). Đây là quy định phù hợp với Luật Doanh nghiệp năm 2014.

Tuy nhiên, theo chúng tôi, cần quy định cụ thể hơn là “cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một trong số các đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia tố tụng”. Vì quy định như hiện tại ở Khoản 1 Điều 434 Bộ luật TTHS có thể gây hiểu nhầm rằng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người bất kỳ làm đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng. Việc tham gia tố tụng với tư cách là đại diện của pháp nhân ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người liên quan, nên cần có quy định cụ thể và rõ ràng về trường hợp này.

Thứ ba, đối với pháp nhân đang tiến hành thủ tục phá sản: Luật Phá sản năm 2014 quy định cụ thể và chi tiết về “Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản” (từ Điều 11 đến 16). Theo đó, các chủ thể này có quyền “quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán (khoản 1 Điều 16), và “đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không có người đại diện theo pháp luật” (Khoản 2 Điều 16). Như vậy, có thể hiểu rằng, trong một số trường hợp, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ là người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng (nhưng chưa quy định rõ trong trường hợp nào: khi người đại diện theo pháp luật chết hay bỏ trốn chẳng hạn). Điều này có vẻ chưa hợp lý về mặt pháp lý, vì quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chỉ là đại diện cho các chủ nợ của doanh nghiệp (bản chất pháp lý của chủ thể này), nhưng lại có thể đại diện cho chính doanh nghiệp đang tiến hành thủ tục phá sản về mặt TTHS?

        Thứ tư, trường hợp người đại diện theo pháp luật (cá nhân) và doanh nghiệp đều bị truy cứu TNHS về cùng một vụ việc: Để tránh bỏ lọt tội phạm, khoản 2 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định: Việc pháp nhân thương mại chịu TNHS không loại trừ TNHS của cá nhân. Như vậy, trong trường hợp chứng minh được việc phạm tội của pháp nhân có sự tham gia của các cá nhân cụ thể thì các cá nhân này cũng phải chịu TNHS về tội phạm mà họ đã thực hiện. Thông thường thì những cá nhân cụ thể này là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.

Từ kinh nghiệm của nước Pháp, trường hợp này, cá nhân cụ thể kia có thể yêu cầu cơ quan tố tụng chỉ định một người khác làm đại diện cho pháp nhân bị truy tố, để có thể tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi của mình trong vụ án hình sự. Một người bị truy cứu TNHS cũng ngăn cản việc người này bảo vệ quyền lợi của pháp nhân trên thực tế với tư cách là người đại diện (có thể bị tạm giam, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác…), chưa kể vấn đề xung đột lợi ích khi người đại diện và pháp nhân cùng bị truy tố về cùng một vụ việc./.

 

[1] Xem: https://www.legifrance.gouv.fr/affichCode.do?cidTexte=LEGITEXT000006070719, truy cập ngày 04/12/2017.

[2] Xem: La Semaine Juridique Edition Générale n° 37, 11 Septembre 2017.

[3] Xem vụ việc: A. Martin-Serf, JCl. Sociétés Traité, Fasc. 41-72, n° 17.

[4] CA Douai, 18 sept. 2007, n° 06/04244 : JurisData n° 2007-345782.

[5] Sổ Đăng ký kinh doanh và doanh nghiệp ở Pháp do Phòng Lục sự Tòa Thương mại sơ thẩm hoặc Tòa Sơ thẩm thẩm quyền rộng lập và lưu giữ, trong đó ghi thông tin đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân nằm trong phạm vị quản hạt của Tòa.

[6] Phán quyết ngày 24/9/2014 của Tòa Phá án Pháp. Cass. crim., 24 sept. 2014, n° 14-82.684. Xem:https://www.legifrance.gouv.fr/affichJuriJudi.do?oldAction=rechJuriJudi&idTexte=JURITEXT000029508885&fastReqId=527074925&fastPos=1, truy cập ngày 04/12/2017.

[7] Tương đương Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản” trong pháp luật Việt Nam

[8] Phán quyết của Tòa Phúc thẩm Paris ngày 13/9/1999. Nguồn: CA Paris, 13 sept. 1999, n° 1998/1268 : JurisData n° 1999-024810.

[9] Phán quyết của Tòa Phúc thẩm Douai, ngày 04/4/2006. Nguồn: CA Douai, 4 avr. 2006, n° 05/00846 : JurisData n° 2006-307264.

[10] Cour de cassation, Chambre criminelle, 10 févr. 2010.

Xem: https://www.legifrance.gouv.fr/affichJuriJudi.do?idTexte=JURITEXT000021883393 truy cập ngày 07/11/2017.

[11] Xem: Circulaire du 14 mai 1993 présentant les dispositions du nouveau code penal et et de la loi n° 92-1336 du 16 décembre 1992 relative à son entrée en vigueur.

[12] Xem: CA Poitiers, 19 juin 2003, n° 03/00202, JurisData n° 2003-224459.

[13] Ở Pháp, Tòa Sơ thẩm thẩm quyền rộng có thẩm quyền chuyên biệt theo thủ tục sơ thẩm đối với một số loại việc như ly hôn, xác định cha, mẹ cho con, kiện về chiếm hữu, kiện về sở hữu bất động sản… và các vụ việc có giá trị trên 10.000 euros. Đối với các vụ việc hình sự, Tòa án này có một hoặc nhiều tòa tiểu hình có thẩm quyền xét xử tội ít nghiêm trọng.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 3+4/2018.

TS. Nguyễn Văn Quân – Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Mới cập nhật

Cùng chủ đề