MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ LUẬT CÔNG TY CỦA SINGAPORE

Singapore áp dụng khá triệt để hệ thống pháp luật Anh. Một trong những nguyên tắc của việc áp dụng hệ thống pháp luật Anh ở Singapore là áp dụng đến chừng mực mà chưa mâu thuẫn với tập quán và pháp luật của Singapore. Chính vì vậy, nguồn luật công ty của Singapore chủ yếu dựa vào các văn bản pháp luật về công ty của Anh và Úc. Tuy nhiên, luật công ty của Singapore hiện nay cũng chứa đựng nhiều điểm khác so với luật công ty hai nước trên.

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ LUẬT CÔNG TY CỦA SINGAPORE
Nguồn chủ yếu của luật công ty của Singapore là Paprtnership Act 1890 và Compaines Act, Business Registration Act, Security Act. Theo các văn bản pháp luật này thì ở Singapore có các loại hình doanh nghiệp sau:

  • Doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp một chủ)
  • Hợp danh
  • Công ty

Theo Luật đăng ký kinh doanh (Luật số 32) thì một cá nhân nào hay một nhóm những cá nhân có thể thành lập doanh nghiệp một chủ (công ty), hợp danh thông qua cơ chế đăng ký với cơ quan đăng ký được máy tính hoá. Các thông tin đăng ký tại đây đều được cung cấp cho bất kỳ ai quan tâm.
“Công ty ” hợp danh không được có quá 20 thành viên, loại trừ đối với các (Công ty) hợp doanh hành nghề được điều chỉnh theo luật. Để đăng ký thì chủ sở hữu duy nhất hay thành viên (công ty) hợp danh phải có đơn tới cơ quan đăng ký để được kiểm tra xem tên dự tính của doanh nghiệp hay (công ty) hợp danh có thích hợp không. Doanh nghiệp một chủ và (công ty ) hợp danh không là pháp nhân. Chủ sở hữu và thành viên của thành viên hợp danh chịu trách nhiệm cá nhân đối với hoạt động của doanh nghiệp và (công ty) hợp danh. Doanh nghiệp một chủ và (công ty) hợp danh không có nghĩa vụ phải nộp báo cáo tài chính hàng năm. Nhưng thời hạn đăng ký của 2 loại hình doanh nghiệp này là 01 năm và được gia hạn hàng năm. Một công ty có thể tham gia với tư cách là thành viên hợp danh.

1. Doanh nghiệp tư nhân trong luật của Singapore.

Doanh nghiệp tư nhân trong luật của Singapore không được điều chỉnh bởi các quy định cụ thể, riêng biệt. Doanh nghiệp tư nhân được coi là doanh nghiệp của cá nhân. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân không có sự tách bạch với tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Khi tham gia các quan hệ kinh tế, dân sự, chủ doanh nghiệp tư nhân được đối xử như thể nhân. Vì vậy, không có những quy định riêng cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Khi chủ doanh nghiệp của cá nhân. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân không có sự tách bạch với tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Khi tham gia các quan hệ kinh tế, dân sự, chủ doanh nghiệp tư nhân được đối xử như thể nhân. Vì vậy, không có những quy định riêng cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Khi chủ doanh nghiệp tư nhân chết thì doanh nghiệp đương nhiên chấm dứt sự tồn tại.

2. Hợp danh trong pháp luật Singapore

Trong đời sống pháp lý Singapore, hợp danh được điều chỉnh bởi Luật hợp danh năm 1890 của Anh. Việc áp dụng đạo luật này của Anh được thực hiện thông qua Đạo luật năm 1993 của Singapore về áp dụng pháp luật Anh. Về cơ bản, hợp danh trong pháp luật Singapore và hợp danh trong pháp luật Anh không khác nhau đáng kể.

Dưới đây là một số quy định chủ yếu về hợp danh:

– Hợp danh là thoả thuận giữa những người tiến hành kinh doanh nhằm thu lợi. Như vậy, theo định nghĩa này thì hai dấu hiệu đặc trưng của hợp danh là sự tồn tại của việc kinh doanh và sự thoả thuận giữa nhiều người tham gia việc kinh doanh vì lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận là tiêu chí cơ bản cho việc xác định hợp danh.
– Số lượng thành viên tối thiểu của hợp danh là 2 và tối đa là 20. Các hợp danh có thành viên với số lượng từ 21 trở lên được gọi là công ty cho dù không đăng ký như là công ty.
– Thành viên của hợp danh theo quy định của pháp luật Singapore có thể bao gồm thể nhân và pháp nhân. Đối với pháp nhân thì việc tham gia hợp danh phải kèm theo điều kiện là điều lệ của các pháp nhân đó không hạn chế việc tham gia hợp danh. Công dân, pháp nhân của các nước bị coi là thù địch thì không được tham gia hợp danh. Vị thành niên có thể được tham gia hợp danh song không bị buộc phải chịu trách nhiệm về những khoản nợ của hợp danh mặc dù tài sản của vị thành niên có thể dùng để trang trải công nợ của hợp danh nêú như tài sản của các thành viên khác trong hợp danh không đủ để trang trải các khoản nợ.
– Hợp danh có thể được thành lập thông qua việc ký thoả thuận thành lập hoặc được thành lập thông qua việc cùng bắt đầu thực hiện hành vì kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Tuy nhiên việc thành lập hợp danh chủ yếu được thực hiện thông qua việc ký hợp đồng thành lập bởi vì hợp đồng ấy sẽ là văn bản điều chỉnh quanh hệ nội bộ giữa các thành viên của hợp danh.
– Các hợp danh cần được đăng ký tại cục đăng ký.
– Việc kết nạp các thành viên mới của hợp danh phải được sự đồng ý của tất cả các thành viên. Thành viên ra khỏi hợp danh có thể đề cử người kế tục mình và trong trường hợp đó hợp danh phải kết nạp người đề cử này. Người được đề cử không phải chịu trách nhiệm về những khoản nợ mà hợp danh đã phải gánh chịu trước khi người được đề cử tham gia hợp danh trừ phi người này chịu trước khi người được đề cử tham gia hợp danh trừ phi người này chấp nhận chịu trách nhiệm về khoản nợ đó.
– Hợp danh đựơc thành lập với thời hạn nhất định sẽ chấm dứt hoạt động khi thời hạn kết thúc. Tuy nhiên, các bên có thể tiếp tục tiến hành hoạt động của hợp danh mặc dù thời hạn đã kết thúc. Hợp danh được thành lập với mục đích thực hiện hoạt động nhất định nào đó sẽ chấm dứt nếu như hoạt động đó đã được thực hiện. Hợp danh được thành lập vô thời hạn thì hợp danh sẽ chấm dứt nếu một thành viên thông báo cho các thành viên khác về việc rút khỏi hợp danh. Nếu hợp danh được thành lập bằng văn bản thì chỉ cần một thành viên thông báo văn bản về việc ra khỏi hợp danh khi đó hợp danh sẽ chấm dứt.
– Luật pháp của Singapore có những quy định chi tiết về trách nhiệm của các thành viên trong hợp danh, những hành vi được coi là hợp pháp, có tác dụng ràng buộc hợp danh và những hành vi bị coi là bất hợp pháp không có giá trị ràng buộc pháp nhân. Trách nhiệm của các thành viên của hợp danh là liên đới và không phân chia trong trường hợp hợp danh chịu trách nhiệm về những hành vi sai trái , còn trách nhiệm đối với các khoản nợi và nghĩa vụ hợp đồng là trách nhiệm liên đới.
– Mặc dù hợp danh không phải là pháp nhân song luật pháp Singapore vẫn cho phép hợp danh khởi kiện nhân danhmình cũng bị kiện với tư cách là hợp danh. Tất cả các thànhviên có thể đứng đơn khởi kiện hoặc để cho một thành viên thay mặt khởi kiện. Những người khác kiện hợp danh có thể khởi kiện trực tiếp chống bất cứ thành viên nào hoặc chống hợp danh.
– Tài sản được đóng góp cho hợp danh hoặc có được qua giao kết nhân danh hợp danh được coi là tài sản của hợp danh. Tài sản của hợp danh được quản lý và sử dụng tuyết đối vì mục đích của hợp danh. Tài sản trong hợp danh có thể là tài sản hợp danh cũng có thể là tài sản của thành viên. Xác định phần tài sản nào của hợp danh và tài sản nào thành viên sẽ được thực hiện căn cứ vào hợp đồng thành lập hợp danh.
Luật Singapore quy định các thành viên có nghĩa vụ trung thành với hợp danh và phải xử sự một cách ngay tình không được cạnh tranh với hợp danh thông qua hoạt động khai báo cáo cho các thành viên về tình hình thu nhập và lợ nhuận khi hoạt động dưới danh nghĩa thành viên của hợp danh. Nguyên tắc, lợi nhuận, và thua lỗ được phân chia đều giữa thành viên hợp danh. Tuy nhiên, nguyên tắc này có thể không có hiệu lực nếu có thoả thuận rõ ràng hoặc có sự ngầm định khác giữa các thành viên của hợp danh.
Những thành viên sử dụng tài sản của hợp danh vì mục đích cá nhân có thể bị các thành viên khác kiện vì vi phạm nguyên tắc trung thành và ngay tình đối với hợp danh.

3. Công ty trong hệ thống pháp luật của Singapore

Theo Luật công ty (Luật số 50) thì 2 hay nhiều người có thể thành lập công ty hoạt động vì mục đích hợp pháp thông qua việc họ ký vào thoả thuận thành lập công ty và tuân thủ quy định đăng ký. Trong mọi trường hợp một công ty phải có ít nhất 2 thành viên, trừ khi công ty này là một công ty con thuê 100% sở hữu của một công ty khác. Nếu công ty trong quá trình hoạt động mà còn lại một thành viên và công ty vẫn tiếp tục hoạt động hơn tháng thì thành viên này bị coi là phạm luật công ty và phải chịu trách nhiệm về tất cả những khoản nợ xảy ra trong công ty thì việc sở hữu cổ phiếu của công ty là điều kiện bắt buộc.

Luật quy định có 3 hình thức công ty:

  1. Công ty trách nhiệm hữu hạn theo cổ phiếu: trách nhiệm của các thành viên công ty là hữu hạn và chỉ hạn chế tới giá đã được thanh toán hay chưa được thanh toán cổ phiếu mà họ nắm giữ (nếu có). Đây là hình thức công ty thông thường được thành lập để thực hiện công việc kinh doanh vì mục đích sinh lợi.
  2. Công ty trách nhiệm hữu hạn theo bảo lãnh: trách nhiệm của các thành viên công ty là hữu hạn và chỉ hạn chế tới giá trị mà họ cam kết cá nhân đóng góp vào tài sản của công ty trong trường hợp giải thể.
  3. Công ty trách nhiệm vô hạn: các thành viên công ty chịu trách nhiệm vô hạn đối với hoạt động của công ty.

Luật công ty Singapore chia các công ty thành công ty cổ phiếu giao dịch hạn chế (private company) và công ty cổ phiếu giao dịch rộng rãi (public company). Công ty cổ phiếu giao dịch hạn chế không được quá 50 thành viên, không được phát hành cổ phiếu và trái nợ cho công chúng và không được nhận tiền gửi của công chúng. Công ty này cũng có thể hạn chế quyền chuyển nhượng cổ phiếu. Ngược lại, công ty có cổ phiếu giao dịch rộng rãi không bị ràng buộc bởi những quy định này. Pháp luật Singapore cho phép một công ty có cổ phiếu giao dịch hạn chế có thể chuyển đổi thành công ty có cổ phiếu giao dịch rộng rãi và ngược lại, khi công ty thoả mãn các điều kiện và yêu cầu về thủ tục chuyển đổi.
Theo luật công ty, các công ty nước ngoài có thể cũng có thể chọn việc thành lập chi nhánh công ty để kinh doanh thay việc phải thành lập một công ty.
Về danh nghĩa, các thành viên là người có quyền lực lớn trong công ty. Bộ máy quản lý, điều hành công ty phải chịu trách nhiệm trước các thành viên của công ty. Các vấn đề quan trọng nhất của công ty sẽ do đại hội cổ đông quyết định hoặc cho phép. Với tư cách là sở hữu chủ đối với công ty trong phạm vi phần vốn góp vào công ty, các thành viên có những quyền, lợi ích và nghĩa vụ gắn liền với tư cách của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, các thành viên của công ty có quyền kiện phát sinh, tức là kiện nhân danh công ty trong những trường hợp nhất định; quyền tiếp cận các tài liệu, sổ sách của công ty.
Luật công ty của Singapore quy định tất cả các công ty được thành lập tại Singapore phải có ít nhất hai giám đốc và một trong hai giám đốc đó phải là người có nơi cư trú thường xuyên ở đây. Các công ty thành lập ở Singapore cũng phải có ít nhất một thư kí là người có nơi cư trú thường xuyên ở Singapore.
Giám đốc công ty ở Singapore có nhiều loại. Giám đốc điều hành (executive directors); giám đốc không điều hành (nonexecutive directors); giám đốc thế vị (alternate directors) và giám đốc “de- facto”. Giám đốc điều hành là loại giám đốc phổ biến nhất trong bộ máy điều hành của công ty.Giám đốc không điều hành là giám đốc không làm việc đầy đủ thời gian cho công ty và không tham gia điều hành công ty. Những chức danh nàythường mang tính chất danh dự. Giám đốc thế vị là người được thay giám đốc trong các phiên họp và hành động nhân danh giám đốc. Giám đốc “de- fatco” là người hành động với tư cách là giám đốc mặc dù chưa bao giờ được bầu hoặc được cử làm giám đốc. Các giám đốc đầu tiên phải được ghi rõ trong văn bản thành lập công ty. Cách thức bầu giám đốc hoặc chỉ định giám đốc điều lệ công ty quy định.
Theo luật của Singapore, các giám đốc công ty có nghĩa vụ hành động trung thực vì lợi ích của công ty, không được đặt mình vào vị trí mà trong đó trách nhiệm của mình và lợi ích của công ty mâu thuẫn với nhau; Sử dụng tài sản và quyền hạn được giao để thực hiện những mục đích của công ty; phải hành động một cách thận trọng, hợp lý trong việc điều hành công ty.
Trong các công ty của Singapore vốn được cấu trúc từ vốn góp và vốn vay. Vốn góp của công ty thể hiện trong các cổ phần. Cổ phiếu là phần góp vốn của thành viên công ty, là phần sở hữu của họ được xác định theo tỉ lệ trong toàn bộ tài sản của công ty.
Cổ phiếu trong công ty của Singapore được chia thành hai loại: Cổ phiếu dự phần (equyty share) và cổ phiếu ưu thế (preferential share) tương đương với cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu tiên trong luật công ty ở một số nước. Theo định nghĩa của luật công ty Singapore ,cổ phiếu ưu tiên là cổ phiếu không chứa đựng quyền bỏ phiếu và chỉ cho phép hưởng lợi tức hạn chế theo tỷ lệ đã xác định. Cổ phiếu cổ phần là cổ phiếu không thuộc diện cổ phiếu ưu tiên.
Vốn cổ phần của công ty ở Singapore được phân loại thành vốn điều lệ (authorized capital), vốn phát hành (issued capital) và vốn đã nộp (paid-up capital). Vốn điều lệ là giá trị tối đa của các cổ phiếu mà công ty được phép phát hành. Vốn điều lệ này có thể thay đổi trong trường hợp công ty phát hành thêm cổ phiếu mới hoặc mệnh giá của cổ phiếu bị tăng hoặc giảm.Vốn phát hành là giá trị toàn bộ của cổ phiếu đã phát hành và đang lưu hành. Vốn phát hành được ghi nhận trong bảng cân đối tài chính của công ty chứ không được thể hiện trong điều lệ văn bản thành lập công ty. Do cổ phiếu phát hành không phải lúc nào cũng được trả hết cho nên vốn thực của công ty có thể ít hơn giá trị các cổ phiếu đã phát hành. Phần giá trị các cổ phiếu mà cổ đông đã trả cho công ty khi mua cổ phiếu được gọi là vốn đã nộp .

@NPKLaw.com tổng hợp

Mới cập nhật

Cùng chủ đề