Đối tượng của quyền hưởng dụng trong pháp luật Việt Nam

  1. Dẫn nhập

Trước đây, Phần thứ hai của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2015) có tiêu đề “Tài sản và quyền sở hữu”. Hiện nay, Phần thứ hai của BLDS 2015 có tiêu đề là “Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản”.

Đối tượng của quyền hưởng dụng trong pháp luật Việt Nam

            Với tiêu đề mới nêu trên, chúng tôi hiểu rằng, quyền đối với tài sản bao gồm: “quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản”. “Quyền khác đối với tài sản” được định nghĩa tại khoản 1 Điều 159 BLDS 2015, theo đó, “quyền khác đối với tài sản là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác”. Thực tế, khoản 2 Điều 159 BLDS 2015 làm rõ những “quyền khác đối với tài sản” theo đó “Quyền khác đối với tài sản bao gồm: a) Quyền đối với bất động sản liền kề; b) Quyền hưởng dụng; c) Quyền bề mặt”. “Quyền đối với bất động sản liền kề” trong BLDS 2015 không mới vì nội hàm của nó được kế thừa từ “Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề” trong BLDS năm 2005. Tuy nhiên, “quyền bề mặt” và “quyền hưởng dụng” là hai quyền mới được ghi nhận.

Sau khi BLDS 2015 được thông qua, đã có những công trình và hội thảo liên quan đến “quyền hưởng dụng” nhưng nội dung các công trình và hội thảo này cho thấy nhận thức về đối tượng của quyền hưởng dụng còn được hiểu chưa thống nhất. Nghiên cứu cho thấy, đối tượng của quyền hưởng dụng rất rộng, nó không giới hạn ở “vật” và còn có thể là tài sản “tiêu hao”.

  1. Đối tượng của quyền hưởng dụng không giới hạn ở “vật”

            Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 quy định:  “Tài sản  vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Tuy nhiên, hiện nay có quan điểm cho rằng, đối tượng của quyền hưởng dụng chỉ có thể là “vật”, bởi lẽ, “khi chủ sở hữu chuyển giao vật cho người khác thông qua giao dịch hoặc do pháp luật quy định để người được chuyển giao khai thác, hưởng hoa lợi, lợi tức từ vật thì người được chuyển giao có một số quyền đối với vật” và “quyền hưởng dụng chỉ có thể được xác lập trên vật không tiêu hao”[1].

Quan điểm trên làm cho người đọc hiểu rằng chỉ vật (sẽ bàn về loại vật tiêu hao ở phần sau) mới có thể là đối tượng của quyền hưởng dụng. Ngoài vật, phải chăng các tài sản khác như “tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” không thể là đối tượng của quyền hưởng dụng? Nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, tài sản khác vật hoàn toàn có thể là đối tượng của quyền hưởng dụng trong pháp luật nước ngoài cũng như trong pháp luật Việt Nam. Ví dụ, BLDS Pháp (được xây dựng từ năm 1804) ghi nhận quyền hưởng dụng ở Điều 578 và đề cập tới đối tượng của quyền hưởng dụng với thuật ngữ “choses” nhưng không có định nghĩa cho thuật ngữ này.

Khi bàn về đối tượng của quyền hưởng dụng, các chuyên gia về tài sản của Pháp khẳng định “quyền hưởng dụng có thể được xác lập đối với tất cả các loại tài sản, động sản hay bất động sản. Quyền hưởng dụng có thể có đối tượng không chỉ là vật hữu hình mà còn cả quyền vô hình như quyền đòi nợ, quyền tác giả, sáng chế, sản nghiệp thương mại…”[2]. Ở đây, “quyền hưởng dụng có thể liên quan đến tất cả các loại tài sản. BLDS đặc biệt quan tâm tới bất động sản” và “phạm vi của quyền hưởng dụng đã được mở rộng đến tài sản vô hình như sản nghiệp thương mại, sở hữu trí tuệ, quyền đòi nợ hay một khoản tiền…”[3].

Trong thực tiễn xét xử, bên cạnh việc ghi nhận quyền hưởng dụng đối với bất động sản là nhà đất (một dạng vật)[4], Toà án Pháp còn ghi nhận quyền hưởng dụng đối với đối tượng khác như quyền đòi nợ, cổ phần, cổ phiếu (một dạng tài sản ở Việt Nam) hay đối với một khoản tiền (cũng là một dạng tài sản ở Việt Nam).

            Ở Việt Nam, theo quy định của Điều 257 BLDS 2015, “Quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sảnthuộc quyền sở hữu của chủ thể khác trong một thời hạn nhất định”. Ở điều luật này, chúng ta thấy đối tượng của quyền hưởng dụng là “tài sản” chứ không giới hạn ở “vật” nên, ở góc độ văn bản, không có cơ sở để khẳng định đối tượng của quyền hưởng dụng “chỉ là vật” mà cần phải hiểu đối tượng của quyền hưởng dụng là “tài sản” nói chung nên vật hay loại tài sản khác hoàn toàn có thể là đối tượng của quyền hưởng dụng.

Với quy định hiện nay trong BLDS 2015, ngoài vật như nhà hay xe, quyền hưởng dụng hoàn toàn có thể được xác lập đối với tài sản khác “vật”. Chẳng hạn, trên cơ sở Điều 258 BLDS 2015, chủ sử dụng đất hoàn toàn có thể tạo lập cho người khác quyền hưởng dụng đối với quyền sử dụng đất của mình thông qua di chúc[5] trong khi đó quyền sử dụng đất là tài sản trên cơ sở Điều 105 và 115 BLDS 2015[6] nhưng không phải là “vật”.

  1. Đối tượng của quyền hưởng dụng bao gồm cả tài sản “tiêu hao”

            Điều 112 BLDS 2015 quy định về “vật tiêu hao” và “vật không tiêu hao”. Theo đó, “vật tiêu hao là vật khi đã qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc không giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu” và “vật không tiêu hao là vật khi đã qua sử dụng nhiều lần mà cơ bản vẫn giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu”. Như vậy, tính chất “tiêu hao” hay “không tiêu hao” chỉ được đề cập đến đối với “vật”. Tuy nhiên, trong phần sau, BLDS 2015 còn đề cập tới tính “không tiêu hao” cho “tài sản” nói chung. Cụ thể, theo quy định của Điều 495 BLDS 2015, “tất cả những tài sản không tiêu hao đều có thể là đối tượng của hợp đồng mượn tài sản”. Như vậy, tính “không tiêu hao” được đề cập tới “tài sản” nói chung chứ không chỉ cho “vật”. Sự không thống nhất này đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau của Tòa án trong thực tiễn giải quyết các quan hệ dân sự. Ví dụ, trong một vụ án giải quyết tranh chấp vay tiền của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh, Toà sơ thẩm xác định đây là tranh chấp hợp đồng “mượn tài sản”, tuy nhiên, Toà án phúc thẩm quyết định: “Xác định quan hệ pháp luật dân sự tranh chấp giữa hai bên đương sự là tranh chấp về hợp đồng vay tài sản” với lập luận: Đối tượng của hợp đồng mượn tài sản là những vật không tiêu hao; “Bên mượn” chỉ được “Bên cho mượn” giao tài sản để sử dụng (giao quyền sử dụng tài sản), và khi kết thúc hợp đồng, “Bên mượn” phải trả lại tài sản đó cho “Bên cho mượn”; Đối tượng của hợp đồng vay tài sản là những vật tiêu hao, vật cùng loại  và “Bên vay” sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận được tài sản đó; khi kết thúc hợp đồng, nếu tài sản vay là tiền thì “Bên vay” sẽ phải trả lại cho “Bên cho vay” bằng tiền, nếu tài sản vay là vật thì phải trả lại bằng vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng. Vì những lý do nêu trên, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ sửa lại bản án sơ thẩm về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và về việc áp dụng điều luật cụ thể giải quyết vụ án[7]. Ở đây, Toà án coi đối tượng của vay – “tiền” – là “tiêu hao” và áp dụng theo hướng hợp đồng cho vay “tiền”, trong khi đó “tiền” không là “vật”.

Chúng tôi chia sẻ với quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh coi tính chất tiêu hao hay không tiêu hao không chỉ giới hạn ở “vật” vì có tài sản không tiêu hao mà không là vật như trường hợp của quyền sử dụng đất (là tài sản không tiêu hao nhưng không là vật). Tương tự, tính tiêu hao không chỉ dành riêng cho “vật” và tài sản khác “vật” hoàn toàn cũng có tính tiêu hao như “tiền” (không là “vật” theo quy định trên nhưng vẫn là tài sản).

Nghiên cứu pháp luật nước ngoài cho thấy tài sản tiêu hao hoàn toàn có thể là đối tượng của quyền hưởng dụng. Ví dụ, Điều 587 BLDS Pháp quy định: “nếu quyền hưởng dụng từ tài sản tiêu hao như tiền, ngũ cốc, rượu, người hưởng dụng có quyền dùng tài sản đó, nhưng khi quyền hưởng dụng kết thúc thì phải hoàn trả tài sản bằng hiện vật theo cùng số lượng và chất lượng hoặc bằng tiền tương ứng với giá trị vào thời điểm hoàn trả”. Thực tế, tài sản tiêu hao được sử dụng nhiều trong hưởng dụng ở Pháp là một khoản tiền, tức “tài sản tiêu hao tiêu biểu nhất”[8]. Trong trường hợp người hưởng dụng một khoản tiền (tài sản tiêu hao) chết, “chủ sở hữu là người có quyền đòi hoàn trả đối với thừa kế. Yêu cầu này chỉ được tiến hành đối với người hưởng dụng hoặc thừa kế của họ. Do đó, yêu cầu đối với người ngoài thừa kế không được chấp nhận”[9].

BLDS Đức cũng theo hướng ghi nhận quyền hưởng dụng đối với tài sản tiêu hao. Điều 1067 BLDS Đức quy định: “Sau khi sử dụng hết, người hưởng dụng phải hoàn trả cho người cấp khoản giá trị mà mọi thứ đã có trong thời điểm tạo ra lợi ích” và thậm chí điều luật này còn quy định rõ “nếu vật dụng tiêu hao là đối tượng hưởng dụng, thì người hưởng dụng lại trở thành chủ sở hữu của vật”[10].

Ở Việt Nam, có quan điểm cho rằng quyền hưởng dụng chỉ áp dụng cho đối tượng là tài sản không tiêu hao, theo đó: (i) Vật không tiêu hao là tài sản có thể qua nhiều lần sử dụng mà không mất đi trạng thái vật chất ban đầu. Tuy nhiên, nó có thể bị giảm chất lượng hoặc bị hư hỏng một cách tự nhiên qua nhiều lần sử dụng theo thời gian, như nhà cửa, các phương tiện giao thông, các đồ gia dụng khác; (ii) Vật tiêu hao là tài sản qua một vài lần sử dụng sẽ làm mất đi trạng thái vật chất ban đầu, bị hao mòn hoặc thay đổi chất, như các loại tài sản tồn tại dưới dạng chất lỏng, tiền, lương thực, thực phẩm… Sự phân biệt này có ý nghĩa về hệ quả của việc thoả thuận cấp cho quyền hưởng dụng và thời hạn hưởng quyền hết. Nếu quyền hưởng dụng được xác lập trên vật tiêu hao thì tài sản có được từ quyền hưởng dụng này người hưởng dụng có thể tiêu dùng, chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc dùng tài sản đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Nếu tài sản bị hưởng dụng (đối tượng của quyền hưởng dụng) là vật tiêu hao thì người hưởng dụng không thể trả lại vật đó”[11].

Thực ra, trước khi có BLDS 2015, có quan điểm khẳng định: “quyền hưởng dụng được thiết lập trên cả tài sản tiêu hao và tài sản không tiêu hao”[12]. Bản thân BLDS 2015 cũng chỉ sử dụng thuật ngữ “tài sản” mà không có bất kỳ khẳng định nào theo hướng chỉ vật, tài sản không tiêu hao mới có thể là đối tượng của quyền hưởng dụng. Điều 266 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng phải được hoàn trả cho chủ sở hữu khi chấm dứt quyền hưởng dụng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Tuy nhiên, điều luật này không đòi hỏi phải hoàn trả đúng tài sản đã giao nhận khi xác lập quyền hưởng dụng như trường hợp của hợp đồng thuê[13], hợp đồng mượn tài sản[14] nên việc hoàn trả tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng hoàn toàn có thể được tiến hành bằng hiện vật bằng cách giao tài sản cùng loại tương đương[15]hay được tiến hành bằng cách thanh toán giá trị của tài sản hưởng dụng.

Tóm lại, có thể nói rằng, theo quy định của pháp luật dân sự, ở Việt Nam, tài sản tiêu hao hay tài sản không tiêu hao đều có thể là đối tượng của quyền hưởng dụng.

Lưu ý khi hưởng dụng tài sản tiêu hao. Những phân tích nêu trên cho thấy quyền hưởng dụng hoàn toàn có thể được xác lập ngay cả đối với tài sản tiêu hao và lúc này người có quyền hưởng dụng được bảo vệ trên cơ sở quy định “chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó” (khoản 2 Điều 166 BLDS 2015) hay trên cơ sở quy định “chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại” (khoản 2 Điều 164 BLDS 2015)[16]. Trong trường hợp xác lập quyền hưởng dụng đối với tài sản tiêu hao, chúng tôi lưu ý một số điểm sau:

Thứ nhất, quyền hưởng dụng không là quyền sở hữu mà chỉ là “quyền khác đối với tài sản” nên tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của người khác người hưởng dụng và người có quyền hưởng dụng chỉ được trao một số quyền năng giống như một số quyền năng của chủ sở hữu. Ở đây, người có quyền hưởng dụng tiêu huỷ tài sản thông qua sử dụng do đối tượng của quyền hưởng dụng là tài sản tiêu hao (vì tính chất tiêu hao, tài sản sẽ mất đi trong quá trình khai thác công dụng, lúc này tiêu huỷ và sử dụng tài sản không tách rời nhau) nên quyền của người hưởng dụng có phần nào quyền giống chủ sở hữu[17] và đây chỉ là một quyền trong các quyền của quyền sở hữu được chuyển sang cho người hưởng dụng (quyền của người hưởng dụng tài sản tiêu hao đã “tiệm cận” quyền của chủ sở hữu hơn so với quyền của người hưởng dụng tài sản không tiêu hao) còn các quyền khác của quyền sở hữu không được chuyển cho người hưởng dụng. Cụ thể, người có quyền hưởng dụng không thể bán hay chuyển nhượng tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng cho người khác. Người hưởng dụng cũng không thể sử dụng tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ[18] (tuy nhiên, bản thân quyền hưởng dụng có thể được sử dụng để bảo đảm hay không thì chúng ta vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng). Do đó, người hưởng dụng tài sản tiêu hao chưa được coi là chủ sở hữu đối với tài sản hưởng dụng mà họ chỉ là người có “quyền khác đối với tài sản” (nên nếu tài sản bị rủi ro trước khi được sử dụng thì chủ sở hữu chịu rủi ro nếu không có quy định khác[19]).

Thứ hai, khi tài sản tiêu hao đã được người hưởng dụng sử dụng thì quan hệ giữa chủ sở hữu và người hưởng dụng phải xử lý như thế nào? Đây là một điểm chưa rõ trong BLDS 2015 khi Điều 265 quy định: “Quyền hưởng dụng chấm dứt trong trường hợp sau đây: Thời hạn của quyền hưởng dụng đã hết; Tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng không còn”. Quyền hưởng dụng chấm dứt ngay sau khi người hưởng dụng sử dụng tài sản với lý do tài sản không còn (do đã tiêu hao) hay chỉ chấm dứt sau khi thời hạn của quyền hưởng dụng hết? Với quy định trên, về mặt lý luận, quyền hưởng dụng chấm dứt khi tài sản tiêu hao được sử dụng và tài sản phải hoàn trả trên cơ sở Điều 266 BLDS, theo đó “Tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng phải được hoàn trả cho chủ sở hữu khi chấm dứt quyền hưởng dụng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Tuy nhiên, do BLDS chỉ quy định nghĩa vụ hoàn trả mà không ấn định cụ thể thời điểm hoàn trả nên phải chăng chúng ta định hướng việc hoàn trả chỉ phải tiến hành khi thời hạn quyền hưởng dụng hết cho dù đã có việc sử dụng tài sản tiêu hao trước thời điểm hết thời hạn của quyền hưởng dụng./.

[1] Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ  (chủ biên), Bình luận khoa học BLDS 2015, Nxb. Công an nhân dân 2017, tr.420 và 423.

[2] F. Terré và Ph. Simler, Droit civil-Les biens, Nxb. Précis-Dalloz 2010, phần số 788.

[3]Ph. Malaurie và L. Aynès, Les biens, Nxb. Defrénois 2013, phần số 813 và 814.

[4]Xem Đỗ Văn Đại, Quyền hưởng dụng nhìn từ pháp luật về bồi thường thiệt hại, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp tháng 4/2017.

[5]Kinh nghiệm ở nước ngoài cho thấy, việc lập di chúc xác lập quyền hưởng dụng là rất phổ biến. Trước đây, dưới sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp, nhiều người dân ở Việt Nam cũng đã lập di chúc tạo lập quyền hưởng dụng. Hiện  nay, với BLDS 2015, chủ sở hữu hoàn toàn có thể lập di chúc tạo quyền hưởng dụng mà không chuyển quyền sở hữu tài sản.

[6] Theo khoản 1 Điều 105 và Điều 115 BLDS 2015, “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” và “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.

[7] Bản án số 23/2012/DSPT ngày 10/1/2012 của Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

[8] Ph. Malaurie và L. Aynès, Les biens, Nxb. Defrénois 2013, phần số 813.

[9] CA de Besancon du 3 novembre 2015, Numéro de rôle: 14/00743.

[10] Nguyên gốc: “If consumable things are the subject of the usufruct, then the usufructuary becomes the owner of the things; after the usufruct ends, he must reimburse the grantor the value that the things had at the time of the creation of usufruct”.

[11] Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (chủ biên), Tlđd, tr.423.

[12] Ngô Huy Cương, Ý tưởng về chế định quyền hưởng dụng trong BLDS tương lai của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, tháng 9/2010.

[13] Khoản 1 Điều 482 BLDS 2015 quy định: “Bên thuê phải trả lại tài sản thuê trong tình trạng như khi nhận, trừ hao mòn tự nhiên hoặc theo đúng như tình trạng đã thoả thuận; nếu giá trị của tài sản thuê bị giảm sút so với tình trạng khi nhận thì bên cho thuê có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ hao mòn tự nhiên”.

[14] Điều 498 BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng mượn tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, bên mượn phải trả lại tài sản đókhi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được”.

[15] Lưu ý là hay có nhầm lẫn giữa tài sản tiêu hao và tài sản cùng loại. Thực tế, hai tài sản này không luôn đồng nhất với nhau. Ví dụ, một cuốn sách được phát hành nhiều bản là tài sản cùng loại nhưng không là tài sản tiêu hao. Ngược lại, một chai rượu đặc biệt là tài sản tiêu hao nhưng lại không là tài sản cùng loại (vì nó đặc biệt nên không có chai thứ hai).

[16] Ở Pháp, khi một người cản trở người hưởng dụng được sử dụng một khoản tiền là đối tượng của quyền hưởng dụng, Toà án đã theo hướng người xâm phạm phải để cho người hưởng dụng được nhận khoản tiền này và phải chịu lãi cho đến khi chuyển tiền cho người hưởng dụng. Chẳng hạn, bà M đã để lại cho chồng mình (ông L) quyền hưởng dụng khi bà M chết. Sau khi bà M chết, ông L đã chấp nhận hưởng thừa kế nhưng ông G (công chứng viên) đang giữ tiền có từ việc thừa kế mà không giao cho ông L xuất phát từ người con gái của bà M (cô C). Khi có tranh chấp, Toà án Pháp đã xét rằng “công chứng viên phụ trách phân chia di sản phải khoản tiền cho ông L” và “ông L có quyền yêu cầu buộc cô C bồi thường thiệt hại do không hưởng dụng được khoản tiền trên và xuất phát từ việc từ chối của cô này, khoản bồi thường được Toà án xác định hàng tháng là 227,47 euros cho giai đoạn từ ngày 9/12/2014 cho đến khi tiền được giao cho ông L hay đưa vào một tổ chức tín dụng” (CA de Paris du 13/01/2016, n° 14/25292).

[17] Điều 158 và 192 BLDS 2015 quy định “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật” và “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản”.

[18] Bởi lẽ khoản 1 Điều 295 BLDS quy định: “Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu”; Điều 309 BLDS quy định: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”; khoản 1 Điều 317 BLDS quy định: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)”.

[19] Theo khoản 1 Điều 162 BLDS 2015, “Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

Đỗ Văn Đại, PGS,TS. Khoa Luật Dân sự, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Nguyễn Nhật Thanh, Khoa Luật Dân sự, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.

Mới cập nhật

Cùng chủ đề